Bản chất của tiền công


Bản chất của tiền công 

Công nhân làm việc cho nhà TB trong 1 thời gian nhất định hoặc hoàn thành 1 số công việc thì được TB trả cho 1 số tiền nhất định gọi là tiền công. Hiện tượng đó làm người ta lầm tưởng tiền công là giá cả của lao động song thực tế lao động không phải hàng hóa nên không có giá cả.

Thật vậy, nếu coi lao động là hàng hóa thì cũng phải được vật hóa trong 1 hình thức cụ thể nào dó, cơ sở để vật hóa là tư liệu sản xuất, song nếu người công nhân có tư liệu sản xuất họ đã bán sản phẩm do mình sản xuất ra chứ không bán lao động.

Coi lao động như hàng hóa sẽ dẫn tới 2 mâu thuẫn sau: 

Nếu lao động là hàng hóa và được trao đổi ngang giá thì không mang lại giá trị thăng dư, phủ nhận quy luật giá trị thặng dư của CNTB

Nếu trao đổi không ngang giá thì phủ nhận quy luật giá trị.

Lao động là thước đo giá trị song bản thân nó không có giá trị. ..cái mà người công nhân bán cho TB là sức lao động, hay nói cách khá, tiền công là giá cả của sức lao động, đây là bản chất của tiền công.

Sự nhầm lẫn tiền công là giá cả của lao động là do:  

Người lao động thông qua lao động để có tiền sinh sống, do đó họ tưởng minh đã bán lao động, nhà TB bỏ tiền ra mua để có lao động cũng nghĩ là mình đã mua lao động.

Hàng hóa sức lao động không tách rời khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã tạo ra, cung cấp 1 giá trị sử dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà TB, nhìn bề ngoai chỉ thấy nhà TB trả giá trị cho lao động.

Lượng tiền công thu được phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số sản phẩm sản xuất ra, nên người ta lầm tưởng tiền công là giá cả lao động.

Các hình thức của tiền công

Tiền công theo thời gian: lượng tiền công thu được phụ thuộc vào thời gian công nhân làm việc cho TB( ngày, tháng năm) dài hay ngắn.

Tiền công theo sản phẩm: lượng tiền công phụ thuộc và số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm do người lao động sản xuất ra hoặc số lượng công việc đã hoàn thành

Biểu hiện của tiền công

Tiền công danh nghĩa: là số tiền người công nhân nhận được khi bán sức lao động của minh cho TB

Tiền công thực tế: là số lượng hàng hóa tiêu dùng mà người công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa.

Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, do đó phụ thuộc vào quan hệ cung cầu sức lao động trên thị trương, khi tiền công danh nghĩa k thay đổi mà giá cả tltd và dịch vụ tăng lên thì tiền công thực tế giảm xuống.

 

Mối quan hệ giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư


Giá trị thặng dư: là bộ phận giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do nhân công tạo ra và thuộc quyền sở hữu của người chủ vốn. Giá trị thặng dư là nguồn thu nhập cơ bản của các nhà tư bản, là cơ sở của toàn bộ các quan hệ tư bản chủ nghĩa. Vì vậy cho nên giá trị thặng dư là mục đích quyết định của sản xuất tư bản chủ nghĩa
Lợi nhuận :Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, nên sau khi bán hàng hoá theo đúng giá trị, nhà tư bản không chỉ bù lạiđủ số tiền đã ứng ra, mà còn thu được một số tiền lời ngang bằng m. Số tiền lời này gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p.

Lợi nhuận tư bản chủ nghĩa là kết quả của tổng tư bản đưa vào sản xuất.
Do đó, lợi nhuận sẽ:
. Xóa nhòa sự khác biệt giữa giá trị tư bản bất biến dùng trong sản xuất (ký hiệu là c) và giá trị tư bản khả biến (ký hiệu là v)
. Che giấu nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư
. Che giấu quan hệ tư bản chủ nghĩa
Mối quan hệ giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư
Lợi nhuận và giá trị thặng dư xét về mặt chất th nó là một nhưng xét về mặt lượng thì nó không thống nhất với nhau
Lợi nhuận có thể lớn hơn hay nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thặng dư vì lợi nhuận trực tiếp được tính gộp vào trong giá cả
Ví dụ:
Nếu cung = cầu thì giá cả = giá trị
Nếu doanh thu là 120, chi phí 100 thì lợi nhuận (p) = giá trị thặng dư (m) = 20
Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả giảm so với giá trị, do đó theo ví dụ trên thì doanh thu chỉ là 110 và p=10, p < m
Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả tăng so với giá trị, do đó doanh thu sẽ là 130 và p=30, p > m
Lợi nhuận che giấu giá trị thặng dư và là sự biến tướng của giá trị thặng dư. Lợi nhuận là sự biểu hiện của giá trị thặng dư, hay giá trị thặng dư mang hình thái chuyển hóa là lợi nhuận

Tư bản thương nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp


Tư bản thương nghiệp 

Tư bản thương nghiệp xuất hiện rất sớm trong lịch sử. Nó tồn tại trên cơ sở lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ. Trước chủ nghĩa tư bản, lợi nhuận của tư bản thương nghiệp chủ yếu là do mua rẻ, bán đắt.

Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận tư bản công nghiệp tách ra chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa. Như vậy, hoạt động của tư bản thương nghiệp chỉ là những hoạt động phục vụ cho quá trình thực hiện giá trị hàng hóa của tư bản công nghiệp. Công thức vận động của nó là: T – H – T’.

Tư bản thương nghiệp có đặc điểm vừa phụ thuộc vào tư bản công nghiệp, vừa có tính độc lập tương đối. Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ: tư bản thương nghiệp chỉ là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra. Tính độc lập tương đối biểu hiện ở chỗ: chức năng chuyển hóa cuối cùng của hàng hóa thành tiền trở thành chức năng riêng biệt tách khỏi tư bản công nghiệp, nằm trong tay người khác.

Khi tư bản thương nghiệp xuất hiện, nó có vai trò và lợi ích to lớn đối với xã hội, bởi vì:

– Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua – bán hàng hóa nên lượng tư bản ứng vào lưu thông và chi phí lưu thông nhỏ hơn khi những người sản xuất trực tiếp đảm nhiệm chức năng này.

– Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua – bán hàng hóa, người sản xuất có thể tập trung thời gian chăm lo việc sản xuất, giảm dự trữ sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng giá trị thặng dư.

– Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua – bán hàng hóa, sẽ rút ngắn thời gian lưu thông, tăng nhanh chu chuyển tư bản, từ đó tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm.

Lợi nhuận thương nghiệp 

+Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong trình sản xuất mà tư bản công nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp, để tư bản thương nghiệp bán hàng hóa cho mình. Lợi nhuận thương nghiệp là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư. Nguồn gốc của nó cũng là một bộ phận lao động không được trả công của công nhân.

+Tư bản công nghiệp “nhường” một phần giá trị thặng dư cho tư bản thương nghiệp bằng cách bán hàng hóa thấp hơn giá trị thực tế của nó, để rồi tư bản thương nghiệp bán đúng giá trị, thu về lợi nhuận thương nghiệp.

Việc phân phối giá trị thặng dư giữa nhà tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp diễn ra theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân thông qua cạnh tranh và thông qua chênh lệch giữa giá cả sản xuất cuối cùng (giá bán lẻ thương nghiệp) và giá cả sản xuất công nghiệp (giá bán buôn công nghiệp).

Tỷ suất lợi nhuận là gì ? bản chất của tỷ suất lợi nhuận , các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận


Tỷ suất lợi nhuận là gì ? bản chất của tỷ suất lợi nhuận , các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận 

Tỷ suất lợi nhuận là lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tổng tư bản ứng ra để sản xuất – kinh doanh. ( P′ )

P′ = mC + V × 100% = PK × 100%

Trong thực tế, người ta thường tính tỷ suất lợi nhuận hàng năm bằng tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận thu được trong năm và tư bản ứng trước

Tỷ suất lợi nhuận là hình thái chuyển hoá của tỷ suất giá trị thặng dư.

Sự khác nhau giữa tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thăng dư: 

– Về chất:

• m’ biểu hiện mức độ bóc lột của nhà tư bản đối với LĐ;

• còn P’ nói lên mức doanh lợi của đầu tư tư bản.

– Về lượng: P’ < m’.

Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì có lợi hơn. Do đó, việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.

– Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận: 

+ Tỷ suất giá trị thặng dư: tỷ suất gía trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn và ngược lại

+ Cấu tạo hữu cơ của tư bản:Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, nếu cấu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.

+ Tốc độ chu chuyển của tư bản: Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn, thì tần suất sản sinh ra giá trị thặng dư trong năm của tư bản ứng truớc càng nhiều lần, giá trị thặng dư theo đó mà tăng lên, làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng.

+ Tiết kiệm tư bản bất biến: Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn.

Bốn nhân tố trên đây đều được các nhà tư bản sử dụng, khai thác một cách triệt để để đạt được tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Song, với những đặc điểm, điều kiện khác nhau, nên cùng một lượng tư bản như nhau đầu tư vào các ngành khác nhau thì tỷ suất lợi nhuận lại đạt được khác nhau. Vì vậy, các nhà tư bản ra sức cạnh tranh kịch liệt vói nhau và dẫn tới việc hình thành lợi nhuận bình quân.

 

Liên hệ Việt Nam


Liên hệ

Như chúng ta đã biết sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước ,nền kinh tế miến bắc bị suy giảm nghiêm trọng.Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém,cơ cấu kinh tế mất cân đối ,năng suất lao động thấp…sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ lương thực cho dân ,nguyên liệu cho công nghiệp ,hàng hoá cho xuất khẩu ,ngoài ra còn bị tàn phá nặng nề bởi đế quốc Mĩ .ở miền nam sau 20 năm chiến tranh nền kinh tế bị đảo lộn ,nông nghiệp bị hoang hoá ở nhiều vùng…
Trước tình hình kinh tế đó ,Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu ,phân tích tình hình  đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế .Đại hội Đảng VI đã rút ra kinh nghiệm lớn trong đó la luôn luôn xuất phát từ thực tế ,tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan .Đảng đã đề ra đường lối đổi mới ,mở ra bước ngoặt trong sự việc xây dựng CNXH ở nước ta .
Đảng ta đã vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới đất nước cả về kinh tế lẫn chính trị .Đại hội VIII đã chỉ ra các mục tiêu cần đạt. Đảng đã phạm sai lầm đó là vội cải tạo CNXH xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần duy trì lâu cơ chế quản lý quan liêu bao cấp.Có nhiều sai sót việc quản lý tiền tệ cũng như quản lý về giai cấp lãnh đạo. Nước ta đã nghiên cứu các mặt mạnh và hạn chế của CNTB để tận dụng một cách tổng hợp vào tình hình kinh tế xã hội nước ta hiện nay để đưa Việt Nam theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Các bước phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam ngày càng đúng đắn ,chính vì Đảng ngày càng nắm vững và vận dụng đúng đắn phương pháp luận triết học toàn diện Mác-Lênin .Mối quan hệ kinh tế biện chứng giữa kinh tế và chính trị ngày càng rõ nét ,đơn cử từ việc thiếu ăn bây giờ Việt Nam trở thành nước thứ 3 xuất khẩu gạo trên thế giới. Lòng tin của nhân dân ngày càng tăng cao .Ngoài ra còn tăng truởng về tổng sản phẩm quốc dân ,về tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài ,về xuất khẩu …
Cần đấu tranh chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí ,tư tưởng nóng vội phưu lưu ,bất chấp mọi quy luật .Ngoài ra cần rèn luyện tính kiên nhẫn chăm chỉ ,dám nghĩ dám làm ,chủ động sáng tạo ,giành lấy thời cơ .Rèn luyện được các phẩm chất ấy người quản lý sẽ đứng vững trên vị trí lãnh đạo của mình , ngoài ra còn có thể vươn lên cao hơn để trở thành nhà kinh doanh giỏi.
Kết luận

Xây dựng CNXH ở Việt Nam là một sự nghiệp rất khó khăn ,phức tạp ,nó như cuộc chiến đấu kháng chiến trường kì của Đảng và nhà nước. Với những bién động trước tình hình kinh tế của nhiều nước trên thế giới đòi hỏi Đảng và nhà nước phảI kiên trì ,giữ vững lòng tin ,quyết tâm khắc phục khó khăn ,đồng thời phải tỉnh táo ,nhạy bén thích ứng kịp thời với thực tế biến đổi từng ngày từng giờ.

Mối quan hệ giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư


Giá trị thặng dư: là bộ phận giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do nhân công tạo ra và thuộc quyền sở hữu của người chủ vốn. Giá trị thặng dư là nguồn thu nhập cơ bản của các nhà tư bản, là cơ sở của toàn bộ các quan hệ tư bản chủ nghĩa. Vì vậy cho nên giá trị thặng dư là mục đích quyết định của sản xuất tư bản chủ nghĩa
Lợi nhuận : là sự chênh lệch giữa doanh thu và chi phí cơ bản
Lợi nhuận tư bản chủ nghĩa là kết quả của tổng tư bản đưa vào sản xuất.
Do đó, lợi nhuận sẽ:
. Xóa nhòa sự khác biệt giữa giá trị tư bản bất biến dùng trong sản xuất (ký hiệu là c) và giá trị tư bản khả biến (ký hiệu là v)
. Che giấu nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư
. Che giấu quan hệ tư bản chủ nghĩa
Mối quan hệ giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư
Lợi nhuận và giá trị thặng dư xét về mặt chất th nó là một nhưng xét về mặt lượng thì nó không thống nhất với nhau
Lợi nhuận có thể lớn hơn hay nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thặng dư vì lợi nhuận trực tiếp được tính gộp vào trong giá cả
Ví dụ:
Nếu cung = cầu thì giá cả = giá trị
Nếu doanh thu là 120, chi phí 100 thì lợi nhuận (p) = giá trị thặng dư (m) = 20
Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả giảm so với giá trị, do đó theo ví dụ trên thì doanh thu chỉ là 110 và p=10, p < m
Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả tăng so với giá trị, do đó doanh thu sẽ là 130 và p=30, p > m
Lợi nhuận che giấu giá trị thặng dư và là sự biến tướng của giá trị thặng dư. Lợi nhuận là sự biểu hiện của giá trị thặng dư, hay giá trị thặng dư mang hình thái chuyển hóa là lợi nhuận

Sự khác nhau giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa


Sự khác nhau giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa

Chi phí thực tế để sản xuất hàng hóa là chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ (lao động vật hóa) tức là giá trị của tư liệu sản xuất (c) và lao động hiện tại ( lao động sống) tức là lao động tạo ra giá trị mới (v + m), chi phí này tao ra giá trị hàng hóa là W:

W = c + v + m

Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư  bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hóa.

W = k + m

(k là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa)

 

Như vậy chi phí thực tế và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự khác nhau về về cả mặt chất và mặt lượng.

Về mặt chất: chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đúng, đầy đủ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tạo ra giá trị hàng hóa, còn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản mà thôi, nó không tạo ra giá trị hàng hóa.

Vì vậy, C.Mác chỉ rõ phạm trù chi phí sản xuất không có quan hệ gì với sự hình thành giá trị hàng hóa, cũng như không có quan hệ gì với quá trình là cho tư bản tăng thêm giá trị.

Về mặt lượng: chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế:

(c + v) < (c + v + m)

Vì tư bản sản xuất được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động, cho nên chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn tư bản ứng trước (K).

Việc hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) che đậy thực chất bóc lột của CNTB. Giá trị hàng hóa: W = k + m trong đó k = v + c. Nhìn vào công thức trên thì sự phân biệt giữa c và v đã biến mất, người ta thấy dường như k sinh ra m. Chính ở đây chi phí lao động bị che lấp bởi chi phí tư bản (k), lao động là thực thể, là nguồn gốc của giá trị thi bị biến mất, và giờ đây hình như toàn bộ chi phí sản xuất TBCN sinh ra giá trị thặng dư.

Tuần hoàn, chu chuyển của tư bản, TBCD, TBLD, ý nghĩa


Tuần hoàn của tư bản sự vận động của tư bản trong quá trình sản xuất và lưu thông. Trải qua 3 giai đoạn, lần lượt mang 3 hình thái (tiền tệ, sản xuất, hàng hoá) rồi quay trở lại hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn tăng lên.

Giai đoạn I, tư bản tồn tại dưới hình thái tiền tệ, chức năng của nó là mua hàng hoá, sức lao động và tư liệu sản xuất. Hoàn thành giai đoạn I, tư bản trút bỏ hình thái tiền tệ, biến thành tư bản sản xuất.

Giai đoạn II, tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất, chức năng của nó là sản xuất giá trị và giá trị thặng dư. Kết thúc giai đoạn II, tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hoá.

Giai đoạn III, tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hoá, chức năng của nó là thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoá biến thành tư bản tiền tệ.

T – H       ->           TTSX + SLĐ …..Sx…..    ->         H’-T’

Giai đoạn I                    Giai đoạn II                    Giai đoạn III

 

Điều kiện bảo đảm cho tuần hoàn không ngừng của tư bản: toàn bộ tư bản cần được phân làm 3 bộ phận, tồn tại đồng thời ở 3 hình thái; mỗi bộ phận của tư bản ở mỗi hình thái phải không ngừng trải qua 3 hình thái.

 

Chu chuyển của tư bản. 

 

Nếu được xem xét như là quá trình định kỳ đổi mới diễn ra liên tục, lắp đi lắp lại, thì sự tuần hoàn của tư bản sản xuất được gọi là

chu chuyển của tư bản. Chu chuyển của tư bản nói lên tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm.

– Nhân tố làm tăng tốc độ chu chuyển của tư bản.

Nghiên cứu tốc độ chu chuyển của tư bản, chúng ta cần nghiên cứu thời gian chu chuyển của tư bản. Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thức nhất định đến khi nó trở về hình thức đó nhưng có thêm giá trị thặng dư. Như vậy, để chu chuyển một vòng, tư bản phải trải qua hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất. Do đó, muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm bớt thời gian lưu thông và thời gian sản xuất của nó. Muốn giảm bớt thời gian lưu thông, phải có phương tiện giao thông vận tải tốt, đầy đủ và thuận tiện; đồng thời, các sản phẩm sản xuất ra phải có giá trị sử dụng cao, giá thành hạ, hợp thị hiếu người tiêu dùng. Muốn giảm thời gian sản xuất phải tăng năng suất lao động, giảm thời gian gián đoạn bằng cách ứng dụng khoa học kỹ thuật v.v..

 

– Nghiên cứu chu chuyển của tư bản, cần hiểu được việc chu chuyển hai bộ phận giá trị của tư bản sản xuất là tư bản cố định và tư bản lưu động. 

 

+ Tư bản cố định là bộ phận của tư bản sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, máy móc) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó được chuyển dần dần vào sản phẩm. Tư bản cố định sử dụng lâu dài và bị hao mòn dần. Có hai loại hao mòn: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn về giá trị sử dụng, do quá trình sử dụng và do tác động của tự nhiên mà bị hao mòn. Còn hao mòn vô hình là hao mòn về giá trị do quá trình hiện đại hóa của khoa học kỹ thuật, nhiều máy móc mới được sản xuất ra tốt hơn với giá rẻ hơn, làm cho máy móc cũ đang được sử dụng bị giảm giá trị ban đầu.

 

+ Tư bản lưu động là bộ phận của tư bản sản xuất (nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ…) được tiêu dùng hoàn toàn trong một chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào sản phẩm.

Nghiên cứu chu chuyển của tư bản là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn trong việc sử dụng tiền vốn trong sản xuất và kinh doanh hợp lý, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Cần tăng tốc độ chu chuyển tư bản cố định, tận dụng tối đa công suất máy móc, thiết bị. Phải đẩy nhanh tốc độ xây dựng để đưa công trình vào sản xuất càng sớm  càng tốt.

 

 

 

Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản


Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. 

Quy luật kinh tế cơ bản là quy luật phản ánh bản chất và mục đích của một phương thức sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế cơ bản.Bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất công nhân buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản. Lao động không công của công nhân làm thuê là nguồn gốc của giá trị thặng dư, nguồn gốc làm giàu của nhà tư bản. Sản xuất giá trị thặng dư là mục đích duy nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì mục đích đó, các nhà tư bản sản xuất bất cứ loại hàng hóa nào, kể cả vũ khí giết người hàng loạt, miễn là thu được nhiều giá trị thặng dư. Phương tiện để đạt mục đích là tăng cường bóc lột công nhân làm thuê trên cơ sở phát triển kỹ thuật, tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động v.v..

Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của quy luật là tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều lao động làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư có tác dụng mạnh mẽ trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Một mặt, nó thúc đẩy kỹ thuật và phân công lao động xã hội phát triển, làm cho lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển với tốc độ nhanh và nâng cao năng suất lao động. Mặt khác, nó làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, trước hết là mâu thuẫn cơ bản của nó – mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất – ngày càng gay gắt.

 

 

Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản,hàng hóa sức lao động


Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản 

Lý luận giá trị đã chứng minh rằng: Giá trị của hàng hóa do lao động của những người sản xuất hàng hóa tạo ra trong sản xuất. Nhưng nhìn vào công thức T-H-T’ người ta dễ lầm tưởng rằng tiền tệ cũng tạo ra giá trị khi vận động trong lưu thông.

Thực chất thì bản thân tiền, dù ở ngoài hay ở trong lưu thông, cũng không tự lớn lên được. Tiền không thể sinh ra tiền là điều hiển nhiên.

Còn lưu thông thuần túy, dù diễn ra ở bất cứ hình thức nào, kể cả việc mua rẻ bán đắt, cũng không làm tăng thêm giá trị, không tạo ra

giá trị thặng dư; ở đây chỉ có sự phân phối lại lượng giá trị có sẵn trong xã hội mà thôi bởi nếu mua rẻ thứ này thì sẽ lại phải mua đắt

thứ kia; bán đắt thứ này thì lại phải bán rẻ thứ khác, vì tổng khối lượng hàng và tiền trong toàn xã hội ở một thời gian nhất định là

một số lượng không đổi. Tuy vậy, không có lưu thông cũng không tạo ra được giá trị thặng dư. Do đó, mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là giá trị thặng dư không do lưu thông đẻ ra nhưng lại được tạo ra thông qua lưu thông. Sở dĩ như vậy vì nhà tư bản tìm được trên thị trường một loại hàng hóa đặc biệt có khả năng tạo ra giá trị thặng dư cho mình. Đó là hàng hóa sức lao động.

Hàng hóa sức lao động. 

Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của con người, là khả năng lao động của con người. Sức lao động là yếu tố cơ bản của mọi

quá trình sản xuất. Nó chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:

– Người có sức lao động được tự do thân thể, được quyền làm chủ sức lao động của mình để có thể đi làm thuê (bán sức lao động).

– Họ không có tư liệu sản xuất và của cải khác để sinh sống, buộc phải đi làm thuê, tức là bán sức lao động của mình. Sức lao động khi trở thành hàng hóa, nó vừa có hai thuộc tính như hàng hóa thông thường vừa có đặc điểm riêng.

– Giá trị hàng hóa sức lao động cũng bằng lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó. Nhưng việc sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động phải được thực hiện bằng cách tiêu dùng cho cá nhân. Vì vậy, lượng giá trị hàng hóa sức lao động bằng lượng giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết về vật chất và tinh thần để nuôi sống người công nhân, gia đình anh ta và chi phí đào tạo công nhân theo yêu cầu của sản xuất. Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.

– Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động là công dụng của nó để thỏa mãn nhu cầu người mua là sử dụng vào quá trình lao động. Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động khi được sử dụng, nó tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư.

Hàng hóa sức lao động là điều kiện để chuyển hóa tiền tệ thành tư bản. Đây cũng chính là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Như vậy, tiền tệ chỉ trở thành tư bản khi nó được sử dụng làm phương tiện để mang lại giá trị thặng dư cho người có tiền và người có tiền phải tìm được một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động.

 

C.Mác gọi công thức T – H – T là công thức chung của tư bản


C.Mác gọi công thức T – H – T là công thức chung của tư bản vì sự vận động  của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù đó là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay. Điều này rất dễ dàng nhận thấy trong thực tiễn, bởi vì hình thức vận động của tư bản thương nghiệp là mua vào để bán ra đắt hơn, rất thích hợp với công thức trên. Tư bản công nghiệp vận động phức tạp hơn, nhưng dù sao cũng không thể tránh khỏi những giai đoạn T – H và H – T’. Còn sự vận động của tư bản cho vay để lấy lãi chẳng qua chỉ là công thức trên được rút ngắn lại T – T. C.Mác chỉ rõ: “ Vậy T – H – T’ thực sự là công thức chung của tư bản, đúng như nó trực tiếp thể hiện ra trong lĩnh vực lưu thông”.

+Công thức chung của tư bản:

Phân biệt: tiền thông thường (tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn) và tiền là tư bản (trong lưu thông của tư bản): tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn, vận động theo cộng thức (1) H-T-H; tiền là tư bản vận động theo công thức (2) T-H-T.

Điểm giống nhau: Cả 2 sự vận động đều do 2 giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, đều có 2 yếu tố tiền & hàng, đều có 2 người có wan hệ kinh tế với nhau là người mua & người bán. Nhưng đó chỉ điểm jống nhau về hình thức.

Điểm khác nhau về chất giữa 2 hình thức:

H-T-H

T-H-T

Điểm xuất phát & điểm kết thúc của wá trình vận động

Đều là hàng hóa, tiền đóng vai trò trung jan

Đều là tiền, hàng hóa đóng vai trò trung jan

-Trình tự vận động

Bắt đầu là việc bán, kết thúc = việc mua

Bắt đầu = việc mua, kết thúc = việc bán

-Mục đích vận động

Là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu

Là giá trị hơn nữa là giá trị tăng them

Giới hạn vận động

Có giới hạn

Ko có giới hạn

-tóm lại: công thức (2) phản ánh mục đích vận động là tiền với tưc cách là tư bản, nên lượng giá trị sau quay về phải lớn hơn giá trị ban đầu, vậy công thức vận động đầy đủ của tư bản là t-H-T’, trong đó T’=T+t, (t là giá trị thặng dư, kí hiệu là m). Như vậy công thức T-H-T’ là công thức chung của tư bản, vì mọi tư bản đều vận động theo công thức này.

Nguồn gốc của tiền tệ, bản chất của tiền:


1. Nguồn gốc của tiền tệ.
Để tìm hiểu nguồn gốc của tiền tệ, ta hãy xem xét quá trình phát triển của các hình thái biểu hiện của giá trị:
Đầu tiên là hình thái giản đơn, ngẫu nhiên của giá trị. Hình thái này xuất hiện khi xã hội nguyên thủy tan rã và chỉ thường gặp ở những mầm mống đầu tiên của trao đổi. Ở đây, giá trị của hàng hoá này chỉ biểu hiện đơn nhất ở một hàng hoá khác và quan hệ trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp hàng lấy hàng, tỷ lệ trao đổi được hình thành ngẫu nhiên. Ví dụ như 20 vuông vải = 1 cái áo. Cái áo ở đây đóng vai trò vật ngang giá – hình thái phôi thai của tiền tệ.
Khi quan hệ trao đổi trở thành quá trình đều đặn, thường xuyên, thúc đẩy sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển thì hình thái thứ hai là hình thái đầy đủ hay mở rộng của hàng hoá ra đời. Hình thái này xuất hiện trong thực tế khi một hàng hoá nào đó được trao đổi với nhiều hàng hoá khác một cách thông thường phổ biến. Ở đây, giá trị của hàng hoá được biểu hiện ở nhiều hàng hoá khác nhau đóng vai trò làm vật ngang giá. Đồng thời tỷ lệ trao đổi không còn mang tính chất ngẫu nhiên nữa mà dần dần do lao động quy định. Tuy nhiên, ở hình thái này, giá trị của hàng hoá được biểu hiện còn chưa hoàn tất, thống nhất và vẫn trao đổi trực tiếp hàng – hàng. Ví dụ như 20 vuông vải = 1 cái áo, = 10 đấu chè, = 40 đấu cà phê, = 0,2 gam vàng…
Do đó, khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển hơn, đòi hỏi phải có vật ngang giá chung, hình thái thứ ba xuất hiện: Hình thái chung của giá trị. Ở hình thái này, giá trị của mọi hàng hoá được biểu hiện ở một hàng hoá đóng vai trò làm vật ngang giá chung – “vật ngang giá phổ biến”. Các hàng hoá đều đổi thành vật ngang giá chung, sau đó mới mang đổi lấy hàng hoá cần dùng. Vật ngang giá chung trở thành môi giới. Tuy nhiên, ở hình thái này, bất kỳ hàng hoá nào cũng có thể trở thành vật ngang giá chung, miễn là nó được tách ra làm vật ngang giá chung. Ví dụ như 1 cái áo hoặc 10 đấu chè hoặc 40 đấu cà phê hoặc 0,2 gam vàng = 20 vuông vải.
Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển hơn nữa, đặc biệt là khi mở rộng giữa các vùng đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung thông nhất thì hình thái thứ tư ra đời: hình thái tiền. Giá trị của tất cả các hàng hoá ở đây đều được biểu hiện ở một hàng hoá đóng vai trò tiền tệ. Lúc đầu có nhiều hàng hoá đóng vai trò tiền tệ nhưng dần dần được chuyển sang các kim loại quý như đồng, bạc và cuối cùng là vàng. Ví dụ như: 10 vuông vải hoặc 1 cái áo hoặc 10 đấu chè = 0.02 gam vàng.
Như vậy, tiền ra đời là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
2. Bản chất của tiền:
Tiền là một loại hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các loại hàng hoá. Nó là sự thể hiện chung của giá trị, đồng thời nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá.
3. Tiền có 5 chức năng. Nó là thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới.
Trước hết, tiền là thước đo giá trị, tức là nó dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hoá khác. Khi đó, giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả hàng hoá có thể lên xuống xung quanh giá trị nhưng tổng số giá cả luôn bằng giá trị.
Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hoá, tức là tiền đóng vai trò là một phương tiện lưu thông. Khi ấy, trao đổi hàng hoá vận động theo công thức H – T – H’. Đây là công thức lưu thông hàng hoá giản đơn. Với chức năng này, tiền xuất hiện dưới các hình thức vàng thoi, bạc nén, tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy. Tiền giấy là ký hiệu giá trị do nhà nước phát hành buộc XH công nhận. Tiền giấy không có giá trị thực (không kể đến giá trị của vật liệu giấy dùng làm tiền). Khi thực hiện chức năng này, tiền giúp quá trình mua bán diễn ra dễ dàng hơn nhưng nó cũng làm việc mua bán tách rời nhau cả về không gian lẫn thời gian nên nó bao hàm khả năng khủng hoảng.
Tiền đôi khi được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại để khi cần thì đem ra mua hàng. Chỉ có tiền vàng, tiền bạc, các của cải bằng vàng có giá trị thực mới thực hiện được chức năng lưu trữ. Ngoài ra, tiền làm phương tiện cất trữ còn có tác dụng đặc biệt là dự trữ tiền cho lưu thông.
Khi kinh tế hàng hoá phát triển đến một mức độ nào đó tất yếu sẽ sinh ra mua bán chịu và tiền có thêm chức năng phương tiện thanh toán như trả nợ, đóng thuế… Tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời như cầu của người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ chưa có tiền hoặc không đủ tiền. Nhưng nó cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng lên. Trong quá trình thực hiện chức năng thanh toán, loại tiền mới – tiền tín dụng – xuất hiện, có nghĩa là hình thức tiền đã phát triển hơn.
Chức năng cuối cùng của tiền là tiền tệ thế giới. Chức năng này xuất hiện khi buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành quan hệ buôn bán giữa các nước. Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, tín dụng, di chuyển của cải từ nước này sang nước khác. Thực hiện trức năng này phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc trao đổi tiền của nước này sang tiền của nước khác tuân theo tỷ giá hổi đoái, tức là giá cả của một đồng tiền nước này được tính bằng đồng tiền của nước khác.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, tiền có 5 chức năng. Những chức năng này có quan hệ mật thiết và thông thường tiền làm nhiều chức năng một lúc.

 

Quy luật giá trị


Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
Nội dung của quy luật giá trị Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hoá không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hoá, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
Trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố:

cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.

Trong những năm vừa qua, quy luật giá trị đã tác động đến nền kinh tế nước ta như sau:

– Điều tiết và lưu thông hàng hoá: Quy luật giá trị luôn đi kèm với bàn tay vô hình trong điều tiết và lưu thông hàng hóa. Ở VN trước đây, giá cả hàng hóa ở các vùng tương đối khác biệt do mức độ lưu thông hàng hóa kém. Tuy nhiên, quy luật giá trị đã tác động vào thị trường, giúp điều tiết và lưu thông hàng hóa giữa các vùng miền. Chúng ta có thể thấy ngày nay các đặc sản miền Bắc như nhãn, vải cũng có bán rất nhiều trong miền Nam và ngược lại, các đặc sản miền Nam như chôm chôm, mãng cầu, mít trái mùa cũng được bày bán rất nhiều ở miền Bắc với mức giá gần như tương đương.
– Kích thích lực lượng sản xuất phát triển: Người sản xuất muốn đứng vững trên thị trường phải liên tục đâu tư và đổi mới kỹ thụât vì kỹ thuật tiên tiến thì giá trị cá biệt của hàng hoá sẽ thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá như vậy người sản xuất mới có lãi nhất.
Ở Việt Nam, trong những năm vừa qua, chứng kiến sự thay đổi công nghệ của hàng loạt các công ty lớn. Cùng với đó là những thiết bị máy móc tiên tiến, nhất là tại các xí nghiệp sản xuất xi măng, các cty này đã trang bị những thiết bị máy móc hiện đại, đổi mới dây chuyền sản xuất, giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm gấp nhiều lần so với trước đây. Chất lượng đội ngũ công nhân cũng được nâng lên trông thấy. Ngày nay, công nhân cũng có thể sử dụng thành thạo vi tính và các máy móc hiện đại.
– Thực hiện sự sàng lọc tự nhiên: Quy luật giá trị cũng có những mặt tiêu cực của nó, đó là sự phân hóa giàu nghèo, nhất là giữa những người sản xuất lớn và những người sản xuất nhỏ lẻ. Ở VN cũng đã xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo và sự phân hóa này ngày càng rõ rệt khi mà quy luật giá trị ngày càng phát huy được vai trò của nó và có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của VN.

Lượng giá trị của hàng hoá


Giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá. Vậy lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó và tính bằng thời gian lao động.
Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một hàng hoá nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề khác nhau… làm cho thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó là khác nhau, tức là mức hao phí lao động cá biệt khác nhau. Nhưng lượng giá trị của hàng hoá không do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định mà do thời gian lao động XH cần thiết.
Thời gian lao động XH cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá nào đó trong điều kiện bình thường của XH với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong XH đó. Vậy, thực chất, thời gian lao động XH cần thiết là mức hao phí lao động XH trung bình (thời gian lao động XH trung bình) để sản xuất ra hàng hoá. Thời gian lao động XH cần thiết có thể thay đổi. Do đó, lượng giá trị của hàng hoá cũng thay đổi.
Có ba nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hoá.
Thứ nhất, đó là năng suất lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên tức là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm xuống, tức là giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm và ngược lại. Vậy, giá trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Mặt khác, năng suất lao động lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, trình độ trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, quy mô sản xuất… nên để tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.
Thứ hai, đó là cường độ lao động. Cường độ lao động phản ánh mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thăng của lao động. Cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hoá sản xuất ra tăng lên và sức lao động hao phí cũng tăng lên tương ứng. Do đó, giá trị của một đơn vị hàng hoá là không đổi vì thực chất tăng cường độ lao động chính là việc kéo dài thời gian lao động. Cường độ lao động phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và đặc biệt là thể chất và tinh thần của người lao động. Chính vì vậy mà tăng cường độ lao động không có ý nghĩa tích cực với sự phát triển kinh tế bằng việc tăng năng suất lao động.
Thứ ba là mức độ phức tạp của lao động. Theo đó, ta có thể chia lao động thành hai loại là lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được. Còn lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể thực hiện được. Trong cùng một thời gian lao động thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn bởi vì thực chất lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân lên. Trong quá trinh trao đổi mua bán, lao động phức tạp được quy đổi thành lao động giản đơn trung bình một cách tự phát

Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hóa


Hàng hoá  là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người và dùng để trao đổi với nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, sản xuất hàng
hoá có bản chất khác nhau, nhưng hàng hoá đều có hai thuộc tính:

a) Giá trị sử dụng

 Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của
con người, ví dụ: cơm để ăn, xe đạp để đi, máy móc, nguyên, nhiên vật liệu để sản
xuất… Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định. Công dụng của vật phẩm do
thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Khoa học kỹ thuật càng phát triển, người ta
càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra
những giá trị sử dụng mới. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. Nó
là nội dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không phải là
giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng cho người
khác, cho xã hội thông qua trao đổi – mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng
là vật mang giá trị trao đổi.

b) Giá trị hàng hoá:

Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ
về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.

Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác
nhau về chất, tại sao chúng lại có thể trao đổi được với nhau và trao đổi theo tỷ lệ nào
đó.

Khi hai sản phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì giữa
chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung ấy không phải là giá trị sử dụng, tuy
nhiên, sự khác nhau về giá trị sử dụng của chúng là điều kiện cần thiết của sự trao đổi.
Nhưng cái chung đó phải nằm ngay ở trong cả hai hàng hoá. Nếu gạt giá trị sử dụng của
sản phẩm sang một bên, thì giữa chúng chỉ còn một cái chung làm cơ sở cho quan hệ
trao đổi. Đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải hoặc thóc, những
người sản xuất đều phải hao phí lao động. Chính hao phí lao động ẩn giấu trong hàng
hoá làm cho chúng có thể so sánh được với nhau khi trao đổi. Chúng được trao đổi theo
một tỷ lệ nhất định, một số lượng vải ít hơn đổi lấy một lượng thóc nhiều hơn (1 m vải =
10 kg thóc); nhưng lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau.
Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá ẩn giấu trong hàng hoá chính là cơ sở để trao
đổi.

Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng
hoá. Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào không có lao động của người sản
xuất chứa đựng trong đó, thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao động hao phí để sản
xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.

c) Mối quan hệ giữa hai thuộc tính

Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Trong
đó, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình thức biểu
hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người sản xuất
ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hoá với nhau. Thực chất của quan hệ trao đổi
là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của mình chứa đựng trong các hàng hoá. Vì
vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá trị là
một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Nếu giá trị sử dụng là thuộc
tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá.

Như vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị,
nhưng là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra
giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ
quan tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi. Ngược lại, đối với
người mua, cái mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của
mình. Nhưng, muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như
vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không thực
hiện được giá trị, sẽ không thực hiện được giá trị sử dụng.

Sản xuất hàng hóa


Sản xuất hàng hóa

Trước hết, để hiểu sản xuất hàng hoá, ta cần hiểu thế nào là kinh tế tự nhiên. Kinh tế tự nhiên là kiểu sản xuất tự cung tự cấp, sản phẩm làm ra nhằm thoả mãn nhu cầu của người trực tiếp sản xuất ra nó. Kiểu sản xuất này gắn liền với nền sản xuất nhỏ, lực lượng lao động phát triển thấp, phân công lao động kém phát triển.
Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức sản xuất trong đó sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu của người trực tiếp sản xuất mà đáp ứng nhu cầu của XH thông qua trao đổi mua bán.
Để sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại cần có hai điều kiện:


Thứ nhất là phải có sự phân công lao động XH, tức là có sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao động XH vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác. Sự phân chia lao động XH sẽ làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu vì khi đó mỗi người khi đó sẽ chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm trong khi họ có nhu cầu sử dụng nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, tất yếu dẫn đến trao đổi mua bán. Sự phân công lao động cũng làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến.. Đây là tiền đề, cơ sở cho sản xuất hàng hoá.
Thứ hai là phải có sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất về mặt kinh tế, tức là những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập nhất định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối. Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định còn trong nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện trên sẽ không có sản xuất hàng hoá.
So với sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hoá có những ưu thế hơn hẳn.
Do sản xuất hàng hoá dựa trên sự phân công lao động XH, chuyên môn hoá sản xuất nên nó khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sản xuất hàng hoá cũng tác động trở lại làm cho phân công lao động XH, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của XH được đáp ứng đầy đủ hơn.
Trong nền sản xuất hàng hoá, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nguồn lực và nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực XH. Từ đó, tạo điều kiện cho việc ứng dụng những thành tựu KH – KT vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và sản xuất có lãi, người sản xuất phải luôn luôn năng động, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Nhờ đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động tăng, hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước… không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hoá, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
Tóm lại, trong khi sản xuất tự cung tự cấp bị giới hạn bởi như cầu và nguồn lực cá nhân, gia đình, quy mô sản xuất nhỏ, không tạo được động lực thúc đẩy sản xuất phát triển thì sản xuất hàng hoá lại tạo được động lực sản xuất phát triển, làm cho sản xuất phù hợp với nhu cầu, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mỗi cá nhân và toàn XH.

Giai cấp, đấu tranh giai cấp


Định nghĩa giai cấp:

Lenin: “ giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong 1 hệ thống sản xuất xã hội nhất định”

1. Đấu tranh giai cấp
Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. V.I.Lênin định nghĩa đấu tranh giai cấp là “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đi áp bức bóc lột.
Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội hoá ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội: Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho phương thức sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trị bóc lột đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
2. Đấu tranh giai cấp – một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp
Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế xã hội vì vậy “đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp”.
Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người dạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.
Đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì, mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V.I.Lênin viết “Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được”.
Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng mọi nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công bằng, dân chủ, văn minh. Đó vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư bản.
3. Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu. Do bối cảnh lịch sử của quá trình hình thành giai cấp và điều kiện mới của xu hướng quốc tế hoá, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có những đặc điểm riêng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định rằng, hiện nay và cả trong thời kỳ quá độ của cả nước ta còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhưng đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay phải nhận thức cho đúng, nó diễn ra trong điều kiện mới với những nội dung mới và hình thức mới. Bởi vì cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, cơ cấu giai cấp, nội dung, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta cũng đã thay đổi nhiều, khác với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ trong những năm đầu chúng ta mới giành được chính quyền. Mối quan hệ giữa các giai cấp, sự phát triển của các giai cấp trong sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước không còn như trước đây. Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng cường đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dân, giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:


Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
1. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội , do tồn tại xã hội quyết định :
Quan niệm duy tâm coi tinh thần , tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định tiến trình phát triển của mọi xã hội .
Chủ nghĩa duy vật thì khẳng định rằng:
– Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội.
– Tồn tại xã hội như thế nào ý thức xã hội như thế ấy. Mỗi khi tồn tại xã hội biến đổi thì những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn học, nghệ thuật … sớm muộn sẽ biến đổi theo.
Vì vậy ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội :
Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định. Nhưng ý thức xã hội không hoàn toàn thụ động, nó có tính năng động, có tính độc lập tương đối trong sự phát triển của mình .
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện ở những mặt dưới đây :
* Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội . Do sức mạnh của thói quen, tập quán truyền thống, do những lực lượng xã hội, đảng phái, giai cấp lỗi thời tìm mọi cách duy trì ý thức cũ, chống lại ý thức xã hội mới tiến bộ hơn.
* Tính vượt trước của tư tưởng tiến bộ khoa học .
Tư tưởng của con người, nhất là tư tưởng triết học, khoa học, nghệ thuật có thể đóng vai trò dự báo tương lai, tìm ra được khuynh hướng phát triển chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
* Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội. Những quan điểm và lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không, mà được tạo nên trên cơ sở những tài liệu lý luận của các thời đại trước, tức là có quan hệ kế thừa với ý thức tư tưởng của thời đại trước.
* Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.
Ý thức xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể như chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học. Mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh một đối tượng nhất định, một phạm vi nhất định của tồn tại xã hội, nhưng giữa chúng có mối quan hệ với nhau .
Sự liên hệ tác động đó làm cho mỗi hình thái ý thức có những tính chất và những mặt không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất .
* Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội :
Đây là một trong những biểu hiện quan trọng nhất của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, biểu hiện tập trung vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
Ý thức tiến bộ – cách mạng : Thúc đẩy xã hội phát triển
Ý thức lạc hậu : ngăn cản sự phát triển của xã hội .
Tóm lại : Ý thức xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội, nhưng nó có tính độc lập tương đối của nó. Vì vậy nếu chỉ thấy tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội một cách máy móc, sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội, không thấy vai trò của tồn tại xã hội sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm .
Ý nghĩa phương pháp luận :
1. Khi nghiên cưú các hiện tượng ý thức, không được dừng lại ở các hiện tượng ý thức mà phải đi sâu phát hiện những mâu thuẫn của đời sống xã hội là nảy sinh các hiện tượng ý thức ấy .
2. Muốn khắc phục các hiện tượng ý thức cũ – xây dựng ý thức mới phải chú ý tạo lập được hiện thực đời sống, nó là mảnh đất tốt nảy sinh, tồn tại phát triển các hiện tượng ý thức .
3. Coi trọng cuộc cách mạng văn hóa-tư tưởng, có tác động rất mạnh trở lại hiện thực cuộc sống. Có ý nghĩa đối với quá trình hình thành nền văn hóa mới con người mới .

Mỗi quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng


MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG.

1.Khái niệm CSHT và KTTT:

a. Cơ sở hạ tầng:

– Là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của 1 xã hội nhất định.

– Trong mỗi xã hội cụ thể CSHT gồm 3 loại QHSX sau:

+ QHSX tàn dư

+ QHSX thống trị ( giữ vai trò quyết định

+ QHSX mầm mống.

– CSHT của 1 xã hội cụ thể được đặc trưng bởi QHSX thống trị.

– Trong PTSX, QHSX là hình thức xét trong tổng thể các QHXh   thì QHSX là cơ sở kinh tế  của xã hội đó hình thành kiến trúc thượng tầng tương ứng.

b. Kiến trúc thượng tầng:

– Là toàn bộ những quan điểm chính trí, pháp quyền đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…v..v cùng với những thiết chế tương ứng như  nhà nước, đảng phái, giáo hội được hình thành trên CSHT nhất định.

– Mỗi yếu tố của KTTT đều có đặc điểm, quy luật vận động riêng nhưng giữa chúng có sự tác động qua lại ảnh hưởng lẫn nhau và đều hình thành trên CSHT.

– Mỗi yếu tố khác nhau của KTTT đều có quan hệ khác nhau với CSHT trong đó có những quan hệ trực tiếp như: chính trị, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo.

– Trong xã hội có giai cấp, KTTT phải mang tính giai cấp.

– Trong KTTT thì nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng.

( vì nhà nước có công cụ bạo lực như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù )

2. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:

a. CSHT quyết định KTTT:

– CSHT nào thì có KTTT ấy

– Tính chất của KTTT do tính chất của CSHT quyết định

– Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị và kinh tế thì giai cấp đó chiếm địa vị thống trị về đời sống tinh thần của địa vị xã hội

– Các yếu tố của KTTT đều gián tiếp hay trực tiếp phụ thuộc vào CSHT do CSHT quyết định.

– Mỗi khi CSHT thay đổi thì sớm muộn KTTT phải thay đổi theo.

– Những yếu tố thay đổi nhanh nhất như chính trị, pháp luật, những yếu tố thay đổi chậm hơn như nghệ thuật, tôn giáo.

b. KTTT tác động trở lại CSHT:

– Chức năng xã hội của KTTT là phải buộc cũng cố duy trì và phát triển CSHT sinh ra nó.

– Trong xã hội có giai cấp thì nhà nước là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất vì nó là công cụ bạo lực cho giai cấp thống trị.

– Cá yếu tố khác nhau của KTTT như đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo v.v..cũng tác động đến CSHT nhưng bị nhà nước và pháp luật chi phối.

– KTTT tác động đến CSHT theo 2 chiều: phù hợp với qui luật khách quan thì thúc đẩy xã hội phát triển, nếu không phù hợp với qui luật khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển xã hội.

– Nếu  KTTT kìm hãm sự phát triển của xã hội thì sớm muộn cách mạng xã hội sẽ nổ ra để thay thế 1 KTTT mới.

3. Ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế xã hội:

– Học thuyết hình thái kinh tế xã hội đã mang lại cho khoa học xã hội 1 phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học.

– Không thể xuất phát từ ý thức tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng xã hội mà phải xuất phát từ đời sống vật chất từ PTSX.

– Động lực thúc đẩy phát triển lịch sử không phải là lực lương thần bí nào mà chính là hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất của con người.

– Khắc phục quan điểm duy tâm về lịch sử.

– Phải xuất phát từ QHSX để tìm hiểu các QHXH khác chính QHSX là tiêu chuẩn phân kỳ lịch sử 1 cách đúng đắn khoa học.

– Muốn nhận thức đúng đắn đời sống vật chất phải nghiên cứu các qui luật vận động đời sống xã hội.

4. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp xây dựng CNXH nước ta.

a. Việc lựa chọn con đường tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.

Vấn đề đặt ra: Tại sao phải lựa chọn  con đường tiến lên CNXH.

Ngay từ luận cương tháng 10/1930: sau khi hoàn thành CM DTDCND thì tiến lên CNXH.

Mục tiêu của CM vô sản là giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi áp bức bóc lột, xây dựng 1 xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

1a. Điều kiện khách quan:

– Yếu tố thời đại: thời đại ngày nay khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã phát triển mạnh, các nước có thể bỏ qua con đường phát triển TBCN.

– Các nước có thể sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng Khoa học và công nghệ đó là những thành tựu chung của nhân loại để xây dựng đất nước mình.

2a. Điều kiện chủ quan:

– Các đảng của giai cấp vô sản giành được  chính quyền và trở thành đảng cầm quyền.

– Xây dựng 1 nhà nước kiểu mới, nhà nước của nhân dân lao động.

* Lưu ý: Khái niệm bỏ qua chế độ TBCN phải được hiểu 1 cách đúng đắn là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị QHSX và KTTT TBCN nhưng tiếp thu và kế thừa những thành tựu của khoa học TBCN ( qui luật phủ định), những thành tựu khoa học công nghệ, những kinh nghiệm quản lý sản xuất, xã hội,)

b.  Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:

– Trong thời đại ngày nay theo xu hướng chung tất cả các nước đều xây dựng kinh tế thị trường.

– Tùy theo chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường sử dụng với mục đích khác nhau ( chế độ TBCN là lợi  nhuận của giai cấp chiếm TLSX, còn XHCN nhằm xây dựng 1 xã hội văn minh công bằng, dân chủ)

– Kinh tế thị trường là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại nó là kết quả của 3 yếu tố:

+ LLSX đã phát triển đến 1 trình độ nhất định.

+ Là kết quả của sự phân công lao động xã hội.

+ Đa dạng các hình thức sở hữu

– Quan điểm của đảng ta là kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, là duy trì nhiều thành phần kinh tế.( hiện nay có 5 thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể, cá thể, tư bản tư nhân và tư bản nhà nước,) mục đích của việc duy trì nhiều thành phần kinh tế là để giải phóng sức sản xuất, tận dụng tiềm năng kinh tế trong nước và thế giới.

Về Tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 4 nội dung chính:

–         Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH

–         Đại đoàn kết dân tộc

–         Về Đảng và xây dựng Đảng

–         Nhân văn

c.CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ:

– Nước ta đi lên CNXH từ 1 nền kinh tế sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến.

– Vì vậy phải tiến hành CNH, HĐH nhằm: từng bước cải tiến và thay thế công cụ lao động, để tiến lên sản xuất lớn.

– Để tiến hành CNH, HĐH chúng ta phải:

+ bước đi vừa tuần tự vừa nhảy vọt.

+ Phát triển kinh tế tri thức

+ Phát triển giáo dục đào tạo để tạo nguồn nhân lực.

Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.


Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

 

1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất:

a. Phương thức sản xuất:

– PTSX là cách thức mà con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sứ nhất định.

– Mỗi xã hội được đặc trưng bằng 1 PTSX nhất định.

– PTSX quuyết định các mặt đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

– PTSX là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

b. Lực lượng sản xuất:

– LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.

– LLSX thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất.

– LLSX bao gồm: người lao động, tư liệu sản xuấ( tư liệu lao động và đối tượng lao động)

+ Người lao động: là chủ thể của quá trình sản xuất: với sức khỏe, trí tuệ và kỹ năng lao động.

+ Tư liệu lao động: Nhà xưởng, vật kiến trúc, thiết bị máy móc. Công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất của Tư liệu lao động.

+ Đối tượng lao động: là đối tượng mà lao động con người hướng tói, có 2 loại:

  • Cái  vốn có của tự nhiên (khoáng

sản, hải sản)

  • Đã qua lao động ( bán thành

phẩm: sắt thép, gỗ)

@ Vai trò của khoa họ trong sản xuất:

TK XIX Mác đã dự báo: “Trong thời đại ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”

Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp bởi vì:

– Nó góp phần cải tiến và thay thế công cụ lao động.

– Nhờ có khoa học mở ra 1 kỷ nguyên mới trong sản xuất như tự động hóa, điều khiển học, vô tuyến điện tử.

– Nhờ có khoa học tăng cường tri thức của người l.động.

c. Quan hệ sản xuất:

– QHSX  là biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.

– QHSX gồm 3 nội dung:

+ Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuât.

+ Quan hệ về tổ chức và quản lí sản xuất.

+ Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.

– Trong 3 mặt của QHSX thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan trọng nhất vì:

* Nó là quan hệ xuất phát.

* Nó là quan hệ cơ bản

* Nó là quan hệ đặc trưng của từng xã hội.

* Nó quy định các quan hệ xã hội khác ( chính trị, đạo đức, tình cảm, thẩm mỹ….)

– Lịch sử nhân loại có 2 loại sở hữu cơ bản về TLSX:

* Sở hữu tư nhân về TLSX: Tập trung trong tay ít người và quan hệ giữa người với người là bóc lột & thống trị

* Sở hữu công cộng về TLSX: TLSX là của chung xã hội ( CSNT, CNXH) và quan hệ giữa người với người là bình đẳng.

– Quan hệ về tổ chức & quản lý sản xuất tác động trực tiếp đến sản xuất nó kìm hãm hoặc thúc đẩy sản xuất.

– Quan hệ về phân phối sản phẩm kích thích trực tiếp đến thái độ người lao động, thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất trên cơ sở lợi ích.

2. Quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX:

* LLSX và QHSX là 2 mặt của PTSX tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau 1 cách biện chứng để tạo nên qui luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.

* Khuynh hướng chung của sản xuất là luôn luôn phát triển vì nhu cầu của con người luôn luôn phát triển không chỉ về lượng mà cả về chất.

* Sự phát triển của LLSX đánh dấu bằng trình độ chinh phục tự nhiên của con người thể hiện qua 5 nội dung:

– Công cụ lao động ( quan trọng nhất)

– Kinh nghiệm lao động.

– Kỹ năng lao động.

– Phân công lao động xã hội.

– Ứng dụng khoa học vào trong sản xuất.

Gắn liền với trình độ của LLSX là tính chất của LLSX Tính chất của LLSX biểu hiện:

+ Khi người lao động sử dụng công cụ lao động thủ công thì tính chất của lao động là tính cá thể.

+ Khi người lao động sử dụng công cụ lao động bằng máy móc  thì tính chất của lao động là tính xã hội.

+ Sự vận động và phát triển của LLSX quyết định làm thay đổi QHSX cho phù hợp với nó.

+ Sự phát triển của LLSX đến 1 mức độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp đến chỗ không phù hợp và bắt buộc phải thay đổi QHSX mới.

+ Thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới cũng có nghĩa là PTSX cũ mất đị thay thế vào đó là 1 PTSX mới.

+ LLSX quyết định QHSX nhưng QHSX có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của LLSX:

– QHSX qui định mục đích của SX

– Tác động đến thái độ của người lao động.

– Tác động đến tổ chức phân công lao động

– Ứng dụng khoa học công nghệ.

Những nguyen ly cơ bản của ly luận nhận thức


I. NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA LÝ LUẬN NHẬN THỨC

Bản chất của nhận thức:

            Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người nhằm đạt tới chân lý khách quan ( tri thức đúng đắn về thế giới )

 

1. Phải thừa nhận thế giới vật chất ( thế giới khách quan ) tồn tại có trước và độc lập với ý thức của con người.

2. Thừa nhận khả năng con người có thể  nhận thức được thế giới ( thế giới vật chất và thế giới tinh thần). ( nếu người này thế hệ này chưa nhận thức được thì người khác thế hệ khác tiếp tục nhận thức)

3. Nhận thức là quá trình biện chứng đi từ :

– cái chưa biết đến biết

– đơn giản đến phức tạp

– chưa hoàn thiện đến hoàn thiện

4. Nhận thức phải lấy thực tiễn làm cơ sở, làm động lực, làm mục đích và là tiêu chuẩn của chân lý.

*. Cơ chế của hoạt động nhận thức:

+ Chủ thể nhận thức: Con người:

– Theo nghĩa rộng: chỉ toàn xã hội loài người

– Theo nghĩa hẹp: chỉ những người tham gia nhận thức và cải tạo thế giới.

+ Khách thể nhận thức ( đối tượng):

– Nghĩa rộng: toàn bộ thế giới khách quan gồm những cái đã biết và chưa biết.

– Chỉ những vùng miền mà con người vươn tới để nhận thức, cải tạo

Như vậy  trong hoạt động nhận thức không thể có chủ thể  mà thiếu khách thể và ngược lại.

– Trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể thì khách thể giữa vai trò quyết định ( vd: công việc dự báo thời tiết)

 

THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC:

1. Khái niệm thực tiễn:

Thực tiễn là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích của con người mang tính lịch sử và xã hội nhằm làm biến đổi tự nhiên và xã hội.

Bản chất của hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo khách thể (đối tượng) cho phù hợp với nhu cầu của chủ thể.

@ Tính chất của họa động thực tiễn:

– Tính lịch sử ( thời gian)

Vd: Sx lúa gạo : Cổ đại dùng đá tạo ra lúa, trung đại: cày bừa tạo ra lúa, hiện đại máy móc tạo ra lúa )

– Tính xã hội: con người phải nương tựa, kết hợp với nhau

2. Những hình thức của hoạt động thực tiễn:

+ Những hình thức cơ bản:

– Hoạt động sản xuất ra của cải vật chất giữ vai trò quyết định nhất,

– Hoạt động chính trị- xã hội: quá trình đấu tranh giai cấp, cải tạo xã hội.

– Thực nghiệm khoa học kỹ thuật

+ Những hình thức không cơ bản:

– Thực tiễn đạo đức như: tâm lý đạo đức( ý thức đạo đức), hành vi đạo đức( thực tiễn)

– Thực tiễn giáo dục (lý thuyết và thực hành)

– Thực tiễn nghệ thuật ( gồm sáng tác và biểu diễn)

3. Vai trò của hoạt động thực tiễn trong nhận thức:

a. Thực tiễn là cơ sở động lực của nhận thức:

– Ngay từ đầu nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn và do thực tiễn qui định ( hành vi đầu tiên của con người là kiếm sống)

– Thông qua những hành động thực tiễn tác động vào đối tượng ( khách thể) các SVHT bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ trên cơ sở đó, con người mới bắt đầu biết về chúng.

– Thông qua hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới đồng thời cũng biến đổi cả bản thân mình, các giác quan phát triển và hoàn thiện làm cho năng lực nhận thức của con người tốt hơn.

– Thông qua hoạt động thực tiễn con người còn chế tạo công cụ, phương tiện để hổ trợ cho các giác quan trong quá trình nhận thức.

b. Thực tiễn là mục đích của nhận thức:

– Tri thức khoa học kỹ thuật chỉ có ý nghĩa khi được vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới và bản thân.

– Chính  nhu cầu của thực tiễn của cuộc sống thúc đẩy khoa học phát triển.

c. Thực tiễn là tiêu chuẩn kiếm tra chân lý:

– Thực tiễn sẽ kiểm tra để xác nhận tri thức đó đúng hay sai, có 1 số quan điểm:

* Lấy số đông làm thước đo ( không chính xác)

* Cái gì có lợi ( trong xã hội có giai cấp đối kháng)

* Cái gì rõ ràng, khúc chiết ( bài thi)

* Thực tiễn là thước đo khách quan.

– Thông qua hoạt động thực tiễn con người điều chỉnh nhận thức cho phù hợp với thực tế khách quan.

Lenin: “ Quan điểm và đời sống về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.

d. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nắm vững nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và vai trò  thực tiễn của nhận thức:

– Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lenin nói chung và lý luận về nhận thức nói riêng.

*  Nhận thức nói chung, lý luận nói riêng được hình thành từ thực tiễn.

* Thực tiễn luôn luôn đặt ra những vấn đề cho nhận thức nói chung và lý luận nói riêng.

* Nhận thức nói chung và lý luận nói riêng phải định hướng cho con người trong cuộc sống và hoạt động thực tiễn.

– Phải quán triệt quan điểm thực tiễn.

* Nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn.

* Phải dựa trên cơ sở thực tiễn.

* Phải đi sâu vào thực tiễn.

* Phải tổng kết thực tiễn.

– Chống chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều.

– Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với sự nghiệp đổi mới của Đảng ta.

* Đổi mới là tất yếu.

* Đổi mới phải có định hướng, định hướng XHCN.

* Đổi mới kinh tế phải kết hợp với đổi mới chính trị.

* Coi trọng tổng kết kinh nghiệm.

 

CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA NHẬN THỨC:


CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA NHẬN THỨC:

Lenin: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường phát triển biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.

@ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng:

1. Trực quan sinh động ( nhận thức cảm tính)

a.Cảm giác:

– Là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, phản ánh những mặt, những thuộc tính riên lẻ của SVHT.

– Nguồn gốc và nội dụng cảm giác là do thế giới khách quan qui định.

– Giác quan là cầu nối liền giữa con người và thế giới khách quan.

b. Tri giác:

– Không phản ánh những thuộc tính riêng lẽ như cảm giác.

– Tri giác phản ánh SV trong tính toàn vẹn trực tiếp và sự tổng hợp những thuộc tính của đối tượng do cảm giác đem lại.

c. Biểu tượng:

– Là những ấn tượng về SV được hình thành sau khi tri giác.

– Biểu tượng không giữ lại những nét riêng lẽ, chỉ giữ lại những nét chung nhất của SV hay 1 nhóm SV.

– Mỗi khi có sự kích thích của trí nhớ thì biểu tương lại xuất hiện.

2. Tư duy trừu tượng ( nhận thức lý tính)

a. Khái niệm:

– Phản ánh những thuộc tính cơ bản có tính bản chất của 1 lớp SVHT

Phân biệt giữa phạm trù và khái niệm:

Giống nhau: đều phản ánh HTKQ

Khác nhau: về mức độ phản ánh ( phạm trù rộng hơn, khái niệm hẹp hơn)

– Khái niệm hình thành và phát triển trên cơ sở  của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức.

– Khái niệm về khách quan ( nội dung nó phản ánh) chủ quan ( tên gọi do con người đặt ra )

b. Phán đoán:

– Là hình thức liên hệ giữa các khái niệm so sánh để xác định mối quan hệ  giữa chúng

Quy luật mâu thuẫn


Quy luật mâu thuẫn:

1. Vị trí vai trò của qui luật mâu thuẫn:

* Vị trí:  Qui luật mâu thuẫn là 1 trong 3 qui luật cơ bản của phép biện chứng.

 Lenin: “Qui luật mâu thuẫn là hạt nhân của phép biện chứng”

* Vai trò: Qui luật mâu thuẫn vạch ra nguồn gốc và động lực bên trong của sự phát triển.

2. Nội dung qui luật mâu thuẫn:

1.1. Mâu thuẫn là 1 hiện tượng khách quan và phổ biến

+ Mâu thuẫn  là sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa cá mặt đối lập trong 1 sự vật hiện tượng.

+ Mặt đối lập là phạm trù  để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng  phát triển ngược chiều nhau tạo nên 1 chỉnh thể.

+ Mâu thuẫn là 1 hiện tượng khách quan và phổ biến

– Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan: Mâu thuẫn tồn tại bên ngoài ý thức con người.

–  Mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến: Mâu thuẫn tồn tại trong cả 3 lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy.

+ Mâu thuẫn tồn tại trong mọi giai đoạn phát triển của sự vật ( mâu thuẫn này mất đi, mâu thuẫn khác nảy sinh).

1.2 Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:

+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là: sự ràng buộc, phụ thuộc và qui định lẫn nhau của các mặt đối lập  trong đó mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề để tồn tại.

+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập là: sự tác động, bài trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập.

+ Sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh của các mặt đối lập.

+ Sự thống nhất của các mặt đối lập nói lên tình trạng đứng yên tạm thời của sự vật hiện tượng. Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có giới hạn  tồn tại ( đứng yên tương đối)

+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập nói lên sự vật hiện tượng  vận động và biến đổi không ngừng, “vận động là tuyệt đối, đứng yên là tương đối. “đấu tranh là tuyệt đối, thống nhất là tương đối”

+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập có thể chia ra làm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm riêng của nó

+ Khi mâu thuẫn được giải quyết sự vật cũ mất đi, sự vật mới lại ra đời lại bao hàm mâu thuẫn mới.

+ Nếu mâu thuẫn không được giải quyết thì không có sự phát triển.

1.3. Sự chuyễn hóa của các mặt đối lập

+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập cuối cùng sẽ dẫn đến các mặt đối lập  chuyễn hóa.

+ Thế  giới vật chất đa dạng nên sự chuyễn hóa cũng đa dạng

* Bản chất của qui luật mâu thuẩn

Mọi sự vật hiện tượng là sự thống nhất của những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng đối lập nhau, sự đấu tranh của những mặt đối lập là nguồn gốc và động lực bên trong của sự vận động và phát triển

3. Ý nghĩa phương pháp luận:

+ Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn của sự vật hiện tượng

+ Khi phân tích mâu thuẫn phải xét toàn diện các mặt đối lập, theo dõi quá trình phát sinh, phát triển và những yếu tố tác động đến

+ Phải biết giải quyết mâu thuẫn đúng lúc, đúng chỗ

+ Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện.

+ Mâu thuẫn bao giờ cũng được giải quyết bằng con đường đấu tranh chứ không phải dung hòa.

+ Mâu thuẫn khác nhau thì cách giải quyết mâu thuẫn khác nhau

Quy luật lượng chất


 Quy luật lượng chất

1. Vai trò của quy luật lượng chất:

Quy luật lượng chất là 1 trong 3 qui luật cơ bản của phép biện chứng. Quy luật này nói lên cách thức của sự vận động và phát triển.

2. Nội dung của qui luật lượng chất:

Trong thế giới vật chất bất kỳ 1 sự vật hiện tượng nào cũng có 2 mặt là chất và lượng.

2.1 Khái niệm  chất:

* Chất là tổng hợp những thuộc tính khách quan vốn có của SVHT nói lên nó là gì, làm cho nó khác với cái khác.

* Trong thế giới vật chất có muôn vàn SVHT khác nhau về chất ( có bao nhiêu SVHT, có bấy nhiêu chất)

* Chất là cái khách quan vốn có của SVHT

* Chất biểu hiện  tình trạng  tương đối ổn định của SVHT làm cho nó tồn tại mà chưa biến thành cái khác.

* Chất của SVHT bộc lộ thông qua những thuộc tính có những thuộc tính căn bản, có những thuộc tính không căn bản.

* Các thuộc tính của SVHT bộc lộ ra tùy theo những mối liên hệ cụ thể của SV này với SV khác.

* Sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ là tương đối tùy theo mối quan hệ cụ thể.

2.1 Khái niệm lượng:

* Lượng của SV không nói lên SV đó là gì mà chỉ nói lên những con số, những thuộc tính, những bộ phận, mức độ phát triển, qui mô to nhỏ.

*  Cũng như chất, lượng là cái khách quan vốn có của SVHT.

* Trong lĩnh vực tự nhiên lượng thường được diễn tả bằng những con số chính xác ( cân đong đo đếm). Còn trong lĩnh vực  xã hội, ngoài những con số chính xác lượng được hiểu rất trừu tượng.

* Lượng còn là những con số quyết định bên trong của SVHT.

2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:

+ Mỗi SVHT là 1 thể thống nhất giữa chất và lượng, 2 mặt đó không tách rời nhau tác động qua lại 1 cách biện chứng, khi SV đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một mức độ nhất định.

+ Độ là mối liên hệ qui định lẫn nhau giữa chất và lượng, nó là giới hạn mà trong đó SV hay HT vẫn còn là nói, chưa chuyễn thành cái khác.

+ Quá trình thay đổi dần dần về lượng đã tạo điều kiện cho chất lượng thay đổi.

+ Quá trình thay đổi về chất gọi là bước nhảy, đó là bước ngoặt căn bản trong sự biến đổi dần dần về lượng, thời điểm xảy ra bước nhảy gọi là điểm nút.

+ Sự chuyễn hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên.

Qui luật này cũng nói lên sự thay đổi về chất cũng dẫn đến sự thay đổi về lượng.

Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt thường xuyên biến đổi.

Sự tác động và chuyễn hóa giữa chất và lượng bao giờ cũng phụ thuộc vào những điều kiện nhất định

+ Trong xã hội sự biến đổi về lượng gọi là tiến hóa, còn nhảy vọt về chất theo chiều hướng tiến bộ gọi là cách mạng.

 

3. Các hình thức của bước nhảy:

+ Nhảy vọt là hình thức phổ biến tất yếu của sực chuyễn hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất.

+ Nhảy vọt trong tự nhiên, diễn ra 1 cách tư phát, trong lĩnh vực xã hội phải thông qua hoạt động, có ý thưc của con người.

+ Bước nhảy có thể khác nhau về qui mô, có bước nhảy cục bộ, bước nhảy toàn bộ.

+  Bước nhảy có thể khac nhau về nhịp độ có bước nhảy trong thời gian rất ngắn, có thời gian dài.

 

4. Ý nghĩa phương pháp luận:

+ Phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh, tư tưởng hửu khuynh muốn tạo ra bước nhảy, phải có quá trình tích lủy về lượng.

+ Phải có thái độ khách quan khoa học và có quyết tâm thực hiện bước nhảy ( Phải xuất phát từ thực tế đó là điều kiện vật chất, quyết tâm là muốn chủ quan – điều kiện tinh thần)

+ Chống khuynh hướng cải lương, tuyệt đối hóa thay đổi về lượng xem đó là hình thức duy nhất của bước nhảy.

+ Chống chủ nghĩa phiêu lưu muốn có những bước nhảy toàn bộ mà không cần có sự tích lủy về lượng.

 

4 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.


I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.

  1. 1.  Khái niệm về mối liên hệ phổ biến:

Mối liên hệ phổ biến là khái niệm để chỉ sự:

– Tác động

– ràng buộc

– Qui định

– Chuyễn hóa

Của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Sự liên hệ biểu hiện ở 3 mặt:

– Giữa các mặt trong cùng một sự vật hiện tượng

– Giữa các sự vật khác với nhau

– Giữa các sự vật với môi trường.

 

2. Các tinh chất của mối liên hệ

a./ Tính khách quan:

– Xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới.

– Mối liên hệ tồn tại bên ngoài ý thức con người

b./ Tính phổ biến

– Không có Sự vật hiện tượng nào không có mối liên hệ bởi vì chúng tồn tại trong 1 chỉnh thể thống nhất.

– Mối liên hệ tồn tại trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy.

c./ Tính đa dạng:

– Xuất phát từ tính đa dạng thế giới vật chất dẫn đến  mối liên hệ đa dạng, biểu hiện ở:

* Liên hệ trong không gian ( cùng 1 thời điểm diễn ra nhiều sự kiện)

* Liên hệ trong thời gian ( là sự liên hệ kế tiếp nhau của các sự kiện )

* Liên hệ bên trong ( là mối liên hệ xảy ra bên trong sự vật hiện tượng.)

* Liên hệ bên ngoài (là mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác)

* Liên hệ cơ bản

* Liên hệ không cơ bản.

– Mỗi kiểu mối liên hệ có vị trí vai trò và đặc điểm riêng của nó.

3. Ý nghĩa, phương pháp luận

a. Ý nghĩa:

* Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm toàn diện, phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ và khâu trung gian.

Mác nói: “ Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.”

* Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét 1 sự vật hiện tượng nào đó, 1 con người nào đó, phải gắn với những hoàn cảnh điều kiện cụ thể.

* Chống lại cách xem xét cào bằng, phiến diện ngụy biện.

 

II. Nguyên lý về sự phát triển:

1. Những quan niệm khác nhau về sự phát triển:

1.1. Quan niệm siêu hình:

+ Phát triển chỉ là sự tăng lên đơn thuần về lượng, không có sự thay đổi về chất.

+ Phát triển như là 1 quá trình tiến lên liên tục không có những bước quanh co thăng trầm phức tạp.

 

1.2 Quan niệm biện chứng:

+ Phát triển là 1 quá trình tiến lên từ thấp đến cao, quá trình đó vừa dần dần, vừa nhảy vọt, cái mới ra đời thay thế cái cũ.

+ Phát triển là quá trình thay đổi dần dần  về lượng dẫn đến thay đỏi về chất diễn ra theo đường xoáy ốc.

+ Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật ( mâu thuẫn bên trong )

+ Phát triển không bao hàm mọi sự vận động nói chung, nó chỉ khái quát sự vận động đi lên cái mới thay thế cái cũ.

+ Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực.

– Giới vô cơ biểu hiện dưới dạng biến đổi các yếu tố làm nảy sinh các hợp chất phức tạp, xuất hiện các hợp chất hữu cơ ban đầu.

– Giới hữu cơ thể hiện ở  khả năng thích nghi.

– Vấn đề xã hội: sự phát triển  của  tư duy thể hiện khả năng con người làm chủ thế giới.

2. Tính chất  của sự phát triển:

a. Tính khách quan:

Phát triển  là  thuộc tính vốn có  của sự vật.

b.  Tính phổ biến:

Phát triển diễn ra ở cả 3 lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy.

c. Tính đa dạng:

– Mỗi sự vật hiện tượng có quá trình phát triển không giống nhau .

– Quá trình phát triển chịu sự tác động khác nhau có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm.

3. Ý nghĩa phương pháp luận:

+ Trong nhận thức và hành động thực tiễn phải có quan điểm phát triển khi xem xét đánh giá các hiện tượng phải đặt chúng trong sự vận động, sự biến đổi.

+ Phải nhìn thấy cái mới, xu thế tất yếu của sự phát triển có thái độ ủng hộ cái mới tạo điều kiện cho cái mới ra đời.

+ Quan điểm phát triển là cơ sở và niềm tin cho thái độ lạc quan khoa học của người cách mạng.

+ Cần chống lại quan điểm nóng vội duy ý chí muốn xóa bỏ  cái cũ khi chưa có đủ điều kiện, quan điểm bảo thủ trì trệ gây cản trở cho sự phát triển.

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức


Phạm trù vật chất và phạm trù ý thức

Vật chất, theo Lênin. “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác,được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của mình.Không thể có vật chất không vận động và không có vận động ở ngoài vật chất.Đồng thời vật chất vận động trong không gian và thời gian.Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất,là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể .
Ý thức la san phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử – xã hội.Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,là sự phản ánh tích cực,tự giác,chủ động,sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn.Chính vì vậy,không thể xem xét hai phạm trù này tách rời,cứng nhác, càng không thể coi ý thức (bao gồm cảm xúc,ý chí,tri thức,….) là cái có trước ,cái sinh ra và quyết định sự tồn tại ,phát triển của thế giới vật chất.

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức

– Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.Vật chất là cái có trước,nó sinh ra và quyết định ý thức:
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não ngưòi – cơ quan phản ánh thế giơí xung quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não ngưòi,tạo thành nguồn gốc tự nhiên .

Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành,tồn tại và phát triển của ý thức .
Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Vật chất là đối tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội dung,hình thức,khả năng và quá trình vận động của ý thức .

-Tác động trở lại của ý thức
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó.Hơn nữa,sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần,phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động,máy móc,nguyên si thế giới vật chất,vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người

 .
Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục tiêu,phương hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì vậy,ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất.Ngược lại,nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách quan,do đó:sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.

Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được.Và suy cho cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất.

Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội,đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội.

Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu,xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý …

Ý nghĩa phương pháp luận .
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội_ để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ đó .
Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh thần.

Cau 3 NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC


Cau 3 NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC
Nguồn gốc của ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử – xã hội. Vì vậy, để hiểu đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức cần phải xem xét nguồn gốc của ý thức trên cả hai mặt tự nhiên và xã hội.

– Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: là bộ óc con người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người, từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan.

Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.

Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản ánh của vật chất, phản ánh năng động, sáng tạo. Nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động, lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh năng động, sáng tạo này được gọi là ý thức.

– Ý thức là thuộc tính của bộ não người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người. Bộ não người và sự tác động của thế giới vật chất xung quanh lên bộ não người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

– Nguồn gốc xã hội của ý thức: sự ra đời của ý thức gắn liền với hoạt động lao động và ngôn ngữ.

Lao động là hoạt động đặc thù của con người, hoạt động bản chất người. Đó là hoạt động chủ động, sáng tạo và có mục đích; là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, làm biến đổi giới tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.

Nhờ có lao động, bộ não con người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển. Hoạt động lao động của con người đã làm cho bộ óc người có năng lực phản ánh sáng tạo về thế giới; đồng thời hình thành và phát triển ý thức. Ý thức với tư cách là hoạt động phản ánh sáng tạo không thể có được bên ngoài quá trình con người lao động làm biến đổi thế giới xung quanh.

Lao động là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ.

Ngôn ngữ, hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện. Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là nhân tố lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, đã làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.

Bản chất và kết cấu của ý thức

+ Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận.

Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại, v.v… trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.

Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm lý, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu, v.v…) của con người.

Theo C.Mác, ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó” .

+ Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.

Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật tự nhiên, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật xã hội; được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.

Vận động là gì? Phân tích các hình thức cơ bản của vận động vật chất


Vận động là gì? Phân tích các hình thức cơ bản của vận động vật chất

1. Vận động là gì?
Ăngghen viết:”Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức đ­ược hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến t­ư duy”.
Theo quan điểm của triết học macxit, vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự biến đổi nói chung.
2. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất.
Dựa vào thành tựu của khoa học tự nhiên và triết học, lần đầu tiên Ăngghen đã phân loại thành 5 hình thức vận động cơ bản của vật chất là:
– Vận động cơ học.
– Vận động vật lý.
– Vận động hoá học.
– Vận động sinh học.
– Vận động xã hội.
Những hình thức vận động trên quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất định:
Thứ nhất, giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, biểu hiện những trình độ phát triển của các kết cấu vật chất.
Thứ hai, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn.
Thứ ba, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau, nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.
Bằng sự phân loại các hình thức vận động, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại các khoa học, cho khuynh h­ướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học. Đồng thời còn chống lại một khuynh h­ướng sai lầm trong nhận thức là quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động

Định nghĩa vật chất của Lênin, ý nghĩa phương pháp luận


– Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các nhà triết học đi trước, khái quát những thành quả của khoa học tự nhiên và cơ sở thực tiến những năm cuối TK 19 đầu TK 20, từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống CN duy tâm, Lê nin đã vach rõ ý đồ xuyên tạc những thành tựu khoa học tự nhiên của những nhà triết học duy tâm, khẳng đinh bản chất vật chất của thế giới và đưa ra đinh nghĩa về vật chất: ” Vật chât là phạm trù triết học dùng đẻ chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”

– Định nghĩa vật chất của Lê nin có 3 nội dung quan trọng:

+ Thứ nhất, khẳng định vật chất là một phạm trù triết học có nghĩa là muốn khẳng định và phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học (tức phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và được xác định từ góc độ giải quyết vấn dề cơ bản của triết học) với khái niệm vật chất được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành ( tức khái niệm dùng chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính, những biểu hiện cụ thể củ thế giới vật chất, tự nhiên hay xã hội)

+ Khẳng định vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan nghĩa là: Thực tại khách quan là thuộc tính quan trọng nhất để phan biệt vật chất và ý thức, để khẳng định rằng đó những cái đang tồn tại độc lập với ý thức con người trong đời sống xã hội vật chất đó là tồn tại XH, nó không phụ thuộc vào ý thức XH.

+ Khẳng định vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người, ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.

– ý nghĩa phương pháp luận: Định nghĩa vật chất của Lê nin có ý nghĩa quan trọng đốí với sự phát triển của CN duy vật và nhận thức khoa học:

+ Khẳng định bản chất của thế gới là vật chất, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, ý thức chỉ là sự phản ánh, chỉ là sản phẩm của vật chất đồng thời định nghĩa cũng khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới, có khả năng chụp lại, chép lại, phản ảnh thế giới vc.

+ Định nghĩa vật chất đã bác bỏ quan điểm xuyên tạc của CN duy tâm về CN duy vật và khẳng định bản chất của CN duy vật luôn được “khẳng định và tồn tại”, cơ sở nền tảng của CN duy vật vẫn tiếp tục phát triển và nó cũng bác bỏ các quan niệm trước đây về vật chất, góp phần mở đường cho các KH tự nhiên trong việc tìm ra các hình thức mới của vật chất để chứng minh cho sự phong phú của cấu trúc vật chất. Vì vậy nó cung cấp thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn.